Trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã nhận được sự can thiệp của Mỹ, đẩy mạnh cuộc chiến tranh vào năm 1949. Mỹ ký kết hiệp định phòng thủ Trung Đông Dương với Pháp vào năm 1950, cung cấp hỗ trợ quân sự, kinh tế và tài chính để thay thế Pháp. Cuối năm 1950, Mỹ ký kết Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt Mỹ với chính quyền Bảo Đại, kéo Việt Nam vào tầm kiểm soát của Mỹ. Sự can thiệp của Mỹ ngày càng gia tăng, tiêu tốn ngân sách chiến tranh Đông Dương, với con số từ 52 tỷ fr vào năm 1950 tăng lên 285 tỷ fr vào năm 1953. Mỹ cũng tăng cường viện trợ kinh tế và cố vấn quân sự đến Việt Nam, thậm chí tuyển chọn người Việt Nam sang học ở Mỹ.
Pháp đặt ra kế hoạch Deli, nhằm kết thúc nhanh cuộc chiến tranh. Kế hoạch này tập trung vào xây dựng lực lượng cơ động, phát triển ngụy quân, xây dựng quân đội quốc gia và phòng tuyến Cộng Sự. Pháp cũng lập thành vành đai trắng bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm ngăn chặn và kiểm soát Việt Minh. Pháp còn sử dụng Biệt Kích, thổ phỉ gián điệp và kết hợp chiến tranh tâm lý, chiến tranh kinh tế để gia tăng quy mô cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, những kế hoạch này đã khiến cuộc kháng chiến của Việt Nam trở nên khó khăn và phức tạp, đặc biệt ở vùng sau lưng địch.
Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra từ ngày 11 đến 19 tháng 2 năm 1951 tại Vinh Quang Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Đại hội thông qua hai bản báo cáo quan trọng: báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tổng kết kinh nghiệm đấu tranh oanh liệt của Đảng qua các thời kỳ và báo cáo về cách mạng Việt Nam do Tổng bí thư Trường Trinh trình bày. Đại hội đề ra nhiệm vụ cơ bản của Cách mạng Việt Nam là đánh đuổi Đế Quốc, giành độc lập và thống nhất hoàn đảo cho dân tộc. Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập Đảng Lao động Việt Nam, hoạt động công khai với tên mới và bầu ra ban chấp hành trung ương Đảng.
Phong trào yêu nước ngày càng lan rộng, nhiều đơn vị và cá nhân ưu tú được tôn vinh. Đại hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất diễn ra từ ngày 1 tháng 10 năm 1952 đã chọn được bảy anh hùng yêu nước: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa và Hoàng Hạnh.
Trong lĩnh vực kinh tế, chính phủ đã vận động lao động sản xuất và tiết kiệm nguồn lực. Năm 1953, vùng tự do và vùng căn cứ du kích đã sản xuất được 2,7 triệu tấn lúa, hơn 65 vạn tấn hoa màu và đáp ứng yêu cầu về công cụ sản xuất và nhu cầu thiết yếu. Chính phủ cũng đưa ra chính sách chấn chỉnh thuế khóa, xây dựng nền tài chính, ngân hàng thương nghiệp để bồi dưỡng sức dân, đáp ứng nhu cầu phát triển.
Trong lĩnh vực giáo dục, ta đã triển khai ba phương trâm phục vụ kháng chiến, dân sinh và sản xuất. Đến năm 1952, đã có trên một triệu học sinh phổ thông. Phong trào bình dân học, vụ và bổ túc văn hóa cũng tiếp tục phát triển, với sự hăng hái của văn nghệ sĩ. Trong lĩnh vực y tế, ta đã chăm lo sức khỏe và phòng bệnh cho nhân dân, xây dựng bệnh viện, bệnh xá và trạm cứu thương.
Tại các chiến trường, ta đã mở các chiến dịch tiến công, giữ vững quyền chủ động và đánh địch trên nhiều vùng. Một số chiến dịch tiêu biểu có thể kể đến là chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám và Quang Trung. Nhờ những chiến dịch này, ta đã tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực địch.
Từ năm 1951 đến 1953, ta cũng mở rộng chiến trường chính ở các vùng Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân đội ta đã tận dụng các hình thức chiến tranh du kích để tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực địch.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã mang lại những bài học quý giá. Đó là sự quyết tâm, đoàn kết và phối hợp giữa các lực lượng vũ trang và nhân dân. Bằng sự kiên trì và sáng tạo, ta đã phát triển các chiến thuật và phương pháp chiến đấu mới, từ đó giành được những chiến thắng to lớn trên chiến trường.
Còn rất nhiều học tập từ cuộc kháng chiến chống Pháp mà ta có thể rút ra. Đó là sự quyết tâm, lòng tự hào dân tộc và tinh thần đoàn kết, cùng với sự kỷ luật và tư duy chiến lược trong mọi hoạt động của Đảng và nhân dân. Cuộc kháng chiến này đã trở thành một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc, khẳng định sự quyết tâm của người Việt Nam trong việc bảo vệ độc lập và tự do.